Thực hiện những chỉ dẫn của Bác Hồ trong Di chúc, suốt 50 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo tự xây dựng, chỉnh đốn cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.
Trung thành với tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng đã có nhiều Nghị quyết, như Nghị quyết Trung ương 23, khóa III (tháng 12/1974) về xây dựng Đảng đã tạo sức mạnh, sự thống nhất ý chí, hành động của Đảng, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến toàn thắng.
Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) là sự tự phê bình, phê bình nghiêm túc, một cuộc chỉnh đốn lớn để đi đến hoạch định đường lối đổi mới.
Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6/1992) về đổi mới, chỉnh đốn Đảng lãnh đạo công cuộc đổi mới phát triển mạnh mẽ vượt qua thách thức của sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô.
Sau Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI. XII, hiện nay, Đảng ta đang tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, gắn chặt phòng với chủ động tiến công để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh và nhấn mạnh một số nội dung mới, chủ yếu là: Mở rộng phạm vi không chỉ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực; bổ sung, làm rõ hệ thống những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “tiêu cực” sát hợp tình hình mới…
Trong thời gian vừa qua việc thực hiện Nghị quyết cũng đã đạt những kết quả nhất định. Chính vì vậy mới có những “thành tựu to lớn, mang ý nghĩa lịch sử” trong công cuộc đổi mới hơn 35 năm qua. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật Đảng và pháp luật của Nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII khẳng định “trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, hơn 86 năm qua, Đảng ta luôn giữ vững bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học;... thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và ngày càng lớn mạnh”.
Tuy nhiên, đúng như Hồ Chí Minh đã viết: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, Nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong đó, gần đây nhất là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII: Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI chỉ rõ: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc” . Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII thẳng thắn chỉ rõ: “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức... Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty” . Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã đánh giá tình hình công tác xây dựng Đảng trong những năm qua và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế, yếu kém. Trong đó nhấn mạnh nguyên nhân chủ yếu: là do một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc rất phức tạp vì nó liên quan đến công tác tổ chức, đụng chạm đến con người. Việc tu dưỡng đạo đức của đảng viên cũng rất khó khăn vì phải chống kẻ thù “nội xâm” – kẻ thù ở trong mình và ở các đồng chí của mình. Khó khăn càng lớn vì nó đòi hỏi phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong” . Khó khăn là vậy nhưng nhất thiết phải làm, để thực hiện được nhiệm vụ đó thì phải có khâu đột phá với những giải pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền của sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.
Củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng. Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI, XII, XIII và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa XII khóa XIII để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tưởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng.
Thứ hai, phải thực hành dân chủ rộng rãi.
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ là động lực thúc đẩy tiến bộ và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do đó, không chỉ giáo dục nâng cao nhận thức về dân chủ mà phải thực hành dân chủ rộng rãi và dân chủ thật sự, đặc biệt là trong xây dựng Đảng. Dân chủ để bảo đảm đoàn kết, thống nhất, thực hiện công bằng và bình đẳng. Dân chủ là một nguyên tắc trong phương pháp lãnh đạo, quản lý của Đảng. Nước ta là nước dân chủ, nên nhân dân có và phải được quyền kiểm soát mọi hoạt động của Đảng nói riêng và công việc quản lý của Nhà nước nói chung.
Để giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi đảng viên, tổ chức đảng phải thường xuyên thực hành dân chủ: coi đó là thước đo thang giá trị văn hóa, đạo đức cách mạng của Đảng trong quá trình tự đổi mới bản thân mình về kỷ cương, tính chiến đấu, về tổ chức, nội dung và phương thức lãnh đạo.
Thứ ba, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình để xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Để thiết thực làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, hơn bao giờ hết, tự phê bình và phê bình càng phải được chú trọng và phải thực hiện nghiêm túc “từ trên xuống”, từ trong Đảng ra ngoài xã hội. Nguyên tắc làm gương, nêu gương, nhất là nêu gương trong tự phê bình và phê bình là sự nhất quán, phải được thể hiện rõ trong từng ý tưởng, quyết sách, việc làm thường ngày của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị, địa phương.
Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải tự giác, thành khẩn và gương mẫu thực hiện tự phê bình và phê bình. Đồng thời, mỗi tổ chức cơ sở đảng phải tăng cường công tác quản lý đảng viên, kiểm tra, giám sát chặt chẽ và xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên không thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình.
Việc tiến hành tự phê bình và phê bình thường xuyên ở chi bộ, trong sinh hoạt Đảng phải vừa cẩn thận, vừa kịp thời, để thông qua đó kiểm điểm, đánh giá và phân loại đảng viên chính xác, khách quan. Trong khi tiến hành tự phê bình và phê bình, bản tự kiểm của cá nhân mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng phải rõ ràng, nghiêm túc, đầy đủ các nội dung; ghi rõ những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân của cả những ưu điểm và khuyết điểm; nêu rõ biện pháp cùng thời gian khắc phục theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, XIII để tự phê bình và phê bình thiết thực và đạt hiệu quả cao. Đồng thời, khi tiến hành tự phê bình và phê bình cũng rất cần sự tham gia, giám sát tự phê bình và phê bình của quần chúng nhân dân tại địa bàn nơi cư trú và cơ quan công tác để thiết thực góp phần giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Thứ tư, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thấu hiểu những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là lời Người để lại trong bản Di chúc lịch sử: “Trước hết nói về Đảng” và yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư…, trong các Văn kiện của Đảng, nhất là từ khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, yêu cầu về rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Tiếp tục thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc; để việc rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư của đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành việc làm thường xuyên, tự giác, mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt những nhiệm vụ sau:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nỗ lực học tập lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, học tập và quán triệt nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng… Thông qua đó, giúp mỗi người rèn luyện và giữ vững bản lĩnh chính trị, sự kiên định lý tưởng cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, trước hết; đồng thời, thiết thực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức quần chúng nhân dân đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn cuộc sống.
Hai là, phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng trong mọi lĩnh vực công tác và cuộc sống đời thường để làm mẫu mực cho quần chúng. Trong đó, mỗi người, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị, địa phương phải nêu gương về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm, cao hơn là làm rồi mới nói, làm nhiều nói ít...; xây đi đôi với chống, trong xây có chống và ngược lại, xây dựng và bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức tốt đẹp gắn liền với chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, rèn luyện đạo đức cách mạng là việc phải làm thường xuyên, liên tục, suốt đời; là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống và đấu tranh tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân. Vì vậy, việc rèn luyện đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên phải được tiến hành ở mọi lúc, mọi nơi. Quá trình rèn luyện đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong mọi mối quan hệ với tổ chức và cá nhân, trong đời tư cũng như trong sinh hoạt cộng đồng; phải được sự theo dõi, giám sát của cấp ủy, của nhân dân trên tinh thần: dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Chú trọng xây dựng những giá trị chuẩn mực đạo đức trong Đảng, ra sức học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chỉ rõ: “Xây dựng và thực hiện có hiệu quả nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống chuẩn mực các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên với tổ chức đảng và với nhân dân”.
Thứ năm, phải làm tốt công tác nhân sự, bởi, như Hồ Chí Minh nói: “Muôn việc thành bài là do cán bộ”.
Người yêu cầu người cán bộ có cả đức và tài nhưng đức và tài trong mỗi giai đoạn lịch sử lại có những biểu hiện cụ thể khác nhau. Trước kia, đức trước hết là sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì Tổ quốc; tài là biết cách đánh giặc. Ngày nay, đức trước hết là trong sạch, không tham nhũng; tài là có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm... có thể coi đây là những tiêu chí cụ thể để lựa chọn, đánh giá cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Thứ sáu, tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” cùng các Quy định “Về những điều đảng viên không được làm”, Quy định số 101-QÐ/TW “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”, và gần đây nhất là Quy định số 08-QĐi/TW về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Chỉ thị số 28-CT/TW ngày 21/1/2019 của Ban Bí thư về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng... Thông qua đó, tạo sự chuyển biến, từ nâng cao nhận thức sang hành động cho mỗi cán bộ, đảng viên, tại mỗi tổ chức cơ sở Đảng bằng cách gắn thực hành đạo đức cách mạng với phòng chống, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; phát huy cái tích cực, đẩy lùi tiêu cực, lấy cái đẹp dẹp cái xấu, góp phần quan trọng xây dựng Đảng thật sự trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Để chăm lo thế nước, vun đắp lòng dân, xây dựng Đảng xứng đáng là “đứa con nòi” của dân tộc, “là người lãnh đạo và người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, dẫn dắt công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, Đảng ta phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới”.
Đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đạt những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Song, do tác động của mặt trái cơ chế thị trường, chúng ta chưa đủ kinh nghiệm trong lãnh đạo, quản lý nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên khó tránh khỏi những hạn chế và tiêu cực. Trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay còn một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng, dao động, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội do Đảng lãnh đạo. Trong số này không ít người đã bị thoái hóa, biến chất, chỉ lo thu vén lợi ích cá nhân, tham nhũng, lãng phí, hối lộ, quan liêu, cơ hội, cục bộ, xa rời và thiếu tôn trọng quần chúng. Cùng với những vấn đề nêu trên là những biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng, coi nhẹ chế độ tự phê bình và phê bình, gây mất đoàn kết nghiêm trọng kéo dài ở một số cơ quan, đơn vị và địa phương. Những vấn đề nêu trên đã và đang làm cho quần chúng nhân dân bất bình, lo lắng, làm giảm lòng tin đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ ta, kìm hãm tiến trình đi lên của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nó là nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của Đảng và sự sống của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Quán triệt và thực hiện những điều căn dặn trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên quan tâm xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức. Muốn vậy, phải tiến hành đồng bộ các biện pháp, kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, trong đó, trước hết phải phòng, chống có hiệu quả căn bệnh tham nhũng, lãng phí, quan liêu trong Đảng và bộ máy Nhà nước. Phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp phải nêu gương và chịu trách nhiệm trước Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu của cơ quan, đơn vị, địa phương mình.
Hơn 50 năm tác phẩm Di chúc đã trôi qua, song, những điều chỉ dẫn, những lời căn dặn của Người vẫn còn nguyên giá trị, nhất là vấn đề về xây dựng, chỉnh chỉnh đốn Đảng. Chúng ta không những học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói riêng mà còn phải làm theo tấm gương của Người để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng vững mạnh, đất nước phát triển, dân tộc trường tồn.
--------
1. GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS Trần Thị Minh Tuyết (2017), 5 tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh – 5 bảo vật quốc gia, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, 2, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
ThS. Nguyễn Văn Hân
Trường Chính trị tỉnh Bình Dương