5/19/2025 12:00:00 AM GMT+7

Vận dụng bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng hiện nay

Trong dòng chảy lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện lên như một vị lãnh tụ kiệt xuất không chỉ trên mặt trận chính trị – quân sự, mà còn là nhà ngoại giao thiên tài của cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bản lĩnh ngoại giao của Người đã trở thành một ngọn đuốc soi đường, vừa kiên định lý tưởng độc lập dân tộc, vừa linh hoạt trong sách lược ứng xử, tạo nên thế và lực cho công cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Bài viết này nhằm làm sáng tỏ những biểu hiện nổi bật trong phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh, từ đó khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong việc định hướng đường lối đối ngoại của Đảng ta hiện nay – một thời đại mà hòa bình, ổn định và phát triển đặt ra nhiều thách thức không kém phần gay gắt.

1. Khái niệm bản lĩnh ngoại giao


“Bản lĩnh” – theo cách hiểu giản dị nhất trong từ điển tiếng Việt – là phẩm chất thể hiện sự tự chủ, quyết đoán, không khuất phục trước áp lực ngoại lai. Trong mỗi lĩnh vực khác nhau, từ chính trị đến khoa học, từ quân sự đến nghệ thuật, bản lĩnh luôn là yếu tố quyết định giữa thành công và thất bại, giữa bước tiến mạnh mẽ hay sự chùn bước trước thử thách.


Trong ngoại giao, bản lĩnh là khả năng giữ vững lập trường nhưng vẫn uyển chuyển trong đối sách. Đó là tinh thần thép ẩn trong vẻ mềm mỏng, là trí tuệ và tầm nhìn vượt thời đại. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bản lĩnh ngoại giao là sự hội tụ giữa sự kiên định với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với sự uyển chuyển linh hoạt để tranh thủ tối đa sự đồng thuận, hợp tác quốc tế vì lợi ích của đất nước. Chính bản lĩnh ấy đã góp phần quan trọng đưa cách mạng Việt Nam đến bến bờ thắng lợi.
Bản lĩnh ngoại giao là một trong những phẩm chất quan trọng trong cuộc sống chính trị quốc tế, thể hiện sự khéo léo, trí tuệ và sự kiên nhẫn của các nhà lãnh đạo và nhà ngoại giao trong việc xây dựng, duy trì và phát triển các mối quan hệ giữa các quốc gia. Trong văn chương, khái niệm bản lĩnh ngoại giao không chỉ gói gọn trong những cuộc đàm phán hay thỏa thuận chính trị mà còn là sự kết hợp giữa khả năng ứng xử linh hoạt, sự khôn ngoan trong cách nhìn nhận các vấn đề, và một tầm nhìn dài hạn về lợi ích của quốc gia và cộng đồng quốc tế. Đây không chỉ là khả năng thương thuyết, mà còn là khả năng duy trì lập trường vững chắc, bảo vệ quyền lợi quốc gia mà không làm mất đi sự tôn trọng đối với các đối tác.


Nhân vật có bản lĩnh ngoại giao trong các tác phẩm văn học thường được miêu tả là những người có khả năng phân tích tình hình sâu sắc, nắm bắt được những yếu tố tác động từ các bên liên quan, và biết cách cân bằng giữa lợi ích quốc gia và các nguyên tắc đạo đức, nhân văn. Họ không chỉ là những chiến lược gia tài ba mà còn là những người sáng suốt, biết nhận diện và giải quyết mâu thuẫn một cách mềm dẻo, đồng thời vẫn giữ được uy tín và sự tôn trọng từ phía các đối tác. Điều này thể hiện qua những tình huống trong văn học khi họ phải đối mặt với những quyết định khó khăn, khi các yếu tố tình thế, lợi ích, và sự hòa hợp giữa các nền văn hóa đan xen vào nhau, đòi hỏi sự khéo léo trong từng lời nói, hành động.
Một yếu tố quan trọng trong bản lĩnh ngoại giao là sự kiên nhẫn và quyết đoán. Những nhà ngoại giao có bản lĩnh không chỉ biết giữ vững lập trường mà còn có thể điều chỉnh chiến lược để ứng phó với những tình huống thay đổi. Điều này được thể hiện trong các tác phẩm văn học qua hình ảnh những nhân vật có thể duy trì sự bình tĩnh, không vội vàng hành động, nhưng cũng không để mình bị lấn át hay bị đe dọa bởi những sức ép từ bên ngoài. Họ biết khi nào nên nhượng bộ và khi nào cần phải cứng rắn, đó chính là sự khôn ngoan trong việc đánh giá và dự đoán các phản ứng từ đối tác. Chính khả năng điều tiết giữa mềm mỏng và quyết liệt này tạo nên sức mạnh bền vững trong việc duy trì các mối quan hệ quốc tế.


Ngoài ra, bản lĩnh ngoại giao còn thể hiện qua khả năng xây dựng những mối quan hệ không chỉ dựa trên lợi ích trực tiếp mà còn trên sự hiểu biết sâu sắc về văn hóa, truyền thống và những giá trị của các quốc gia khác. Những nhân vật trong các tác phẩm văn học thường không chỉ là những người hiểu rõ về lợi ích quốc gia mà còn là những người tôn trọng sự khác biệt, biết cách xây dựng cầu nối giữa các nền văn hóa, khắc phục những rào cản ngôn ngữ, tôn giáo, hay tư tưởng. Họ biết rằng trong mối quan hệ quốc tế, sự tôn trọng lẫn nhau là yếu tố quan trọng không kém việc thỏa thuận các quyền lợi kinh tế hay chính trị. Sự hòa hợp này chính là nền tảng để xây dựng một thế giới hòa bình và phát triển bền vững, mà những nhân vật ngoại giao với bản lĩnh sẽ là người đi đầu trong việc gắn kết các quốc gia lại với nhau.


Cuối cùng, bản lĩnh ngoại giao còn được thể hiện trong cách mà những nhà lãnh đạo này đối mặt với thử thách và khó khăn. Những quyết định khó khăn, đôi khi là hy sinh lợi ích cá nhân hay lợi ích ngắn hạn vì lợi ích chung của quốc gia và cộng đồng quốc tế, chính là điểm nhấn của bản lĩnh này. Trong văn chương, nhân vật có bản lĩnh ngoại giao sẽ là hình mẫu về sự hy sinh vì nghĩa lớn, sẵn sàng chấp nhận gian khổ để bảo vệ những giá trị cao đẹp mà họ đang đại diện. Những hành động này không chỉ làm tôn vinh phẩm giá của quốc gia mà còn truyền cảm hứng về lòng kiên định và tinh thần lãnh đạo trong việc bảo vệ hòa bình và ổn định toàn cầu.


Vì vậy, bản lĩnh ngoại giao trong văn chương không chỉ là một khái niệm chính trị mà còn là một phẩm chất nhân văn, thể hiện sự trí tuệ, sự kiên nhẫn, lòng kiên định và khả năng xây dựng các mối quan hệ tôn trọng và bền vững giữa các quốc gia. Những nhân vật sở hữu bản lĩnh này không chỉ giải q uyết mâu thuẫn quốc tế mà còn góp phần tạo dựng một thế giới hòa bình, thịnh vượng và phát triển lâu dài.


2. Bản lĩnh của Hồ Chí Minh thể hiện trong đấu tranh ngoại giao thời kỳ kháng chiến

 


Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta. Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7-1954), buộc Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam. Thắng lợi này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ phát triển mới với những điều kiện thuận lợi to lớn, đồng thời cũng đặt ra những thách thức khó khăn chồng chất đang chờ đợi.


Ở miền Bắc, hậu quả nặng nề của 9 năm kháng chiến đã để lại những tổn thất to lớn về cơ sở vật chất, kinh tế và làm cho sức dân hao kiệt. Mặc dù hòa bình lập lại, tình hình an ninh, trật tự vẫn còn khá phức tạp do thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cài gián điệp, tung biệt kích phá hoại, gây rối. Một số đảng phái và phần tử của chế độ cũ vẫn lén lút hoạt động tuyên truyền, kích động quần chúng hòng gây bạo loạn ở vùng biên giới Tây Bắc, chống phá chính quyền cách mạng.


Ở miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ vừa được ký còn chưa ráo mực, Tổng thống Mỹ Aixenhao (Eisenhower) đã tuyên bố: “Bản thân Hoa Kỳ đã không phải là một bên đương sự trong các quyết định tại hội nghị và không bị các quyết định đó ràng buộc” , nhằm biện minh cho hành động can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Với âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á, Mỹ đã hất cẳng Pháp, nhảy vào Đông Dương và đưa Ngô Đình Diệm – một phần tử chống cộng cuồng tín – về miền Nam làm Thủ tướng, lập ra chính quyền tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ xây dựng một phòng tuyến chống cộng, tạo ra “một con đê ngăn làn sóng đỏ” ở khu vực Đông Nam Á. Dưới sự chỉ huy của Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm mở hàng loạt chiến dịch “tố cộng, diệt cộng”, bắt bớ, giết hại hàng chục ngàn đảng viên cộng sản và những người tham gia kháng chiến, khiến tình hình cách mạng miền Nam trở nên rất đen tối.


Trên thế giới, sau một thời gian dài tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang giữa hai siêu cường Liên Xô và Mỹ, tình hình đã bắt đầu chững lại, thay vào đó là sự hòa hoãn tạm thời giữa hai cường quốc. Liên Xô thực hiện chính sách đối ngoại hòa hoãn với phương Tây, bắt tay với Mỹ, theo khẩu hiệu: “Thi đua hòa bình; Chung sống hòa bình”. Mặt khác, trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, sự chia rẽ và mâu thuẫn ngày càng sâu sắc, không chỉ làm suy yếu lực lượng cách mạng thế giới mà còn làm phức tạp hóa quan hệ quốc tế, gây bất lợi cho phong trào giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh vì hòa bình, hữu nghị giữa các nước. Tình hình này đặc biệt gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Mâu thuẫn Trung - Xô lập tức bị đế quốc Mỹ khai thác, nhằm phá hoại phong trào cộng sản quốc tế, đồng thời khoét sâu sự ngăn cách giữa Trung Quốc và Liên Xô với hy vọng hạn chế sự giúp đỡ của hai nước này đối với Việt Nam, một quốc gia đang đối đầu với Mỹ.


Trước những khó khăn chồng chất ở miền Bắc sau chiến tranh, cùng với những tổn thất to lớn của phong trào cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh không khỏi có những mối quan ngại sâu sắc. Bởi lẽ, để phá vỡ thế cô lập, mở rộng quan hệ ngoại giao khu vực và quốc tế, cần có sự đồng tình, ủng hộ của các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra môi trường thuận lợi để nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.


Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này, ngay từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa II), tháng 7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung phân tích những thay đổi về tình hình thế giới và trong nước, nhận định kẻ thù mới và trực tiếp của nhân dân ta là đế quốc Mỹ. Người khẳng định: “Mục tiêu bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt” . Hồ Chí Minh đã ra tuyên bố nêu rõ quan điểm và đường lối đối ngoại của Nhà nước ta: “Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà sẵn sàng đặt mối quan hệ thân thiện, hợp tác với bất cứ một nước nào trên nguyên tắc tôn trọng sự hoàn chỉnh về chủ quyền và lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, bình đẳng, cũng có lợi và chung sống hoà bình” .


Song song với việc thúc đẩy các hoạt động ngoại giao trọng tâm (với Liên Xô, Trung Quốc và phe xã hội chủ nghĩa), cùng với sự lãnh đạo của Đảng ta, Hồ Chí Minh chỉ đạo giữ gìn và mở rộng quan hệ với các nước trong khu vực như Ấn Độ, Indonesia, Miến Điện, Lào, Campuchia… Người nói: “Tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước Đông Nam Á như Ấn Độ, Nam Dương, Miến Điện, làm cho chính phủ các nước đó đồng tình với nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, hoặc ít nhất cũng giữ trung lập”.


Tích cực theo đuổi chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, thay mặt Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố ủng hộ “năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình” do Chính phủ Trung Quốc và Ấn Độ đưa ra.


Trước những sự kiện được nhiều người xem như là sự “phản bội” của hai quốc gia láng giềng Cămpuchia và Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý kiến chỉ đạo làm dịu đi tình hình căng thẳng khu vực, tránh đối đầu dẫn đến đổ vỡ, sa vào âm mưu của kẻ thù. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam sẽ không thể ổn định nếu không có mối quan hệ thân thiện với các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước trên bán đảo Đông Dương. Do đó, Người chỉ thị: “Về quan hệ nhà nước cần hoà hoãn quan hệ với Lào và Cămpuchia trên cơ sở thi hành Hiệp định đình chiến, làm tiêu tan những hoang mang của họ” . Nhờ những đối sách ngoại giao mềm dẻo, sáng suốt, chúng ta đã bước đầu làm thất bại âm mưu chia rẽ của kẻ thù và tạo tiền đề cho việc thiết lập Liên minh chiến đấu Việt - Lào - Campuchia ở giai đoạn sau.


Khi tình hình miền Nam trở nên căng thẳng bởi những cuộc đàn áp đẫm máu của kẻ thù, dã tâm xâm lược và âm mưu chia cắt lâu dài nước ta của Mỹ - ngụy ngày càng lộ rõ, Đảng ta đã có sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược cách mạng miền Nam, từ thế “giữ gìn lực lượng” sang thế tiến công, tiến hành “chiến tranh cách mạng” để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (Nghị quyết 15 - Ban Chấp hành Trung ương khóa II, tháng 1-1959). Phong trào cách mạng miền Nam tuy có những tiến triển vượt bậc, nhưng điều đó lại không được sự tán đồng của hai nước đồng minh chiến lược Xô - Trung.


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc từ lâu vẫn có ý định duy trì tình trạng Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, vì thế họ thường xuyên thuyết phục Việt Nam phải “trường kỳ mai phục”, không nên tiến hành đấu tranh vũ trang ở miền Nam. Đại diện lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc - Đặng Tiểu Bình nói rằng: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”. Ngoài những lý do đã nhìn thấy trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc, tâm lý ngại Mỹ, sợ “đốm lửa” chiến tranh sẽ lan sang cả Trung Quốc, khiến những người lãnh đạo Bắc Kinh hết sức lo sợ. Họ nói: “Cần hết sức tránh việc trực tiếp tham gia chiến tranh… cần tính đến một phiêu lưu của Mỹ” .


Đối với Liên Xô, thực hiện đường lối “hòa hoãn” Xô - Mỹ, Liên Xô chủ trương giữ nguyên hiện trạng hai miền của Việt Nam, không ủng hộ đường lối đấu tranh vũ trang của Đảng ta ở miền Nam để tránh “đụng chạm” với Mỹ (lý do Liên Xô đưa ra với ta là sợ “đốm lửa cháy rừng”, sợ nổ ra Chiến tranh Thế giới thứ III). Trước tình hình “cả thế giới sợ Mỹ, ngại đụng đầu với Mỹ”, cùng với sự lãnh đạo của Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo một mặt tích cực vận động quốc tế (chủ yếu là Liên Xô - Trung Quốc) ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ, mặt khác kiên quyết giữ vững đường lối vũ trang cách mạng để giải phóng miền Nam, thực thi nguyên tắc độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào bất cứ sức ép nào.


Tuy nhiên, để tiến hành chiến tranh chống lại tên đế quốc đầu sỏ Hoa Kỳ, Việt Nam không thể tách rời sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quốc và bạn bè trên thế giới. Vấn đề đặt ra là phải có một giải pháp chính trị - ngoại giao sao cho có thể thuyết phục được Liên Xô, Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được thành lập, đánh dấu một bước phát triển mới của cách mạng miền Nam, đồng thời sự ra đời của Mặt trận cũng chính là giải pháp chính trị mang tính chiến lược về ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta.


Quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, ra Tuyên bố “Chương trình hành động” với chủ trương “miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc” thể hiện đỉnh cao của bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh. Bởi vì, trong khi cả thế giới sợ Mỹ, Hồ Chí Minh và cả dân tộc ta quyết tâm đánh Mỹ; nhưng trên phương diện ngoại giao, một lần nữa Đảng ta thực hiện sách lược “Hòa để tiến” (lùi một bước trước ý kiến của Liên Xô và Trung Quốc). Do đó, nếu chỉ nhìn vào mục tiêu, thì tuyên bố của Mặt trận là bước thụt lùi so với những gì ta đã đạt được ở Hội nghị Giơnevơ (năm 1954). Nhưng về thực chất, sự thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (tổ chức đại diện cho các tầng lớp nhân dân yêu nước ở miền Nam) là một sách lược mềm dẻo về ngoại giao của Đảng và Hồ Chí Minh, nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam. Cụ thể về sách lược, chúng ta đã làm cho Liên Xô, Trung Quốc không có lý do để phản đối cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam, vẫn tiếp tục viện trợ cho Việt Nam chống xâm lược Mỹ. Mặt khác, đây là đòn phản công chí mạng làm thất bại luận điệu tuyên truyền của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm về cái gọi là: “Sự xâm lăng của cộng sản ở miền Nam Việt Nam”.

 

Có thể nói, bằng sáng tạo trong chỉ đạo đường lối chiến lược và sách lược cách mạng nói chung và ngoại giao nói riêng, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã tạo ra vị thế hợp pháp vững chắc của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời làm thay đổi hẳn cục diện cách mạng miền Nam, nhất là đã tạo nên phong trào “Đồng khởi” nổ ra trên khắp miền Nam. Đó là: : “Một đòn bất ngờ giáng vào chiến lược của Aixenhao (Eisenhowor), làm thất bại một hình thức điển hình của chủ nghĩa thực dân mới Mỹ” . Đảng ta khẳng định: “Cao trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị của quần chúng từ sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đã đập tan từng mảng ấp chiến lược ở nhiều vùng rộng lớn, làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Kennơđi, đẩy tới sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Chiến thắng to lớn của nhân dân ta chống "chiến tranh đặc biệt" đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh thắng Mỹ - ngụy trong "chiến tranh cục bộ" sau này”.


Với bản lĩnh và tư chất của một nhà ngoại giao lão
luyện, không nao núng trước bất cứ một sức ép nào trong quan hệ với các quốc gia (dù lớn hay nhỏ, mạnh hay yếu), Hồ Chí Minh luôn luôn đề cao và duy trì nguyên tắc độc lập tự chủ về đường lối, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tuy nhiên, đối với Hồ Chí Minh nguyên tắc không bao giờ cứng nhắc. Trước sự phản đối của Liên Xô, Trung Quốc về chủ trương khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Hồ Chí Minh đã dùng phương sách giải quyết mềm dẻo, để tránh căng thẳng trong quan hệ, nhưng vẫn bảo đảm mục tiêu cách mạng. Sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (12-1960) là kết quả của một đối sách khôn khéo, chẳng những làm yên lòng các đồng minh, chủ động hạn chế phạm vi chiến tranh (nếu nổ ra), mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới.


Thời kỳ đầu năm 1965, khi Mỹ tuyên bố ném bom miền Bắc và cho quân đổ bộ vào miền Nam đã làm cho cả thế giới rung động và e ngại, nhưng Hồ Chí Minh một lần nữa đã thể hiện bản lĩnh của một lãnh tụ anh minh, một chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc và là một nhà ngoại giao kiệt xuất. Người không sợ Mỹ bởi vì biết rằng đằng sau 31 triệu nhân dân Việt Nam là cả loài người tiến bộ đứng về phía Việt Nam đấu tranh chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa. Mặc cho sự đe doạ của sức mạnh quân sự Mỹ, bất chấp sức ép từ nhiều phía, Hồ Chí Minh vẫn bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam tiến theo con đường đã định. Dưới sự chỉ đạo của Người, nhân dân ta kiên quyết giương cao ngọn cờ độc lập, hoà bình, nêu cao chính nghĩa để tập hợp lực lượng dân tộc và quốc tế, từng bước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ.


3. Vận dụng bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh trong bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng hiện nay


Bản lĩnh ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa tư duy chiến lược sắc sảo, lập trường kiên định và phương pháp hành động linh hoạt, sáng tạo. Tư tưởng ấy không chỉ là di sản tinh thần quý báu mà còn là kim chỉ nam trong hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ mới.


Trước bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gia tăng, các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá dưới chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, việc quán triệt và vận dụng bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.


Trước hết, cần vận dụng tư tưởng độc lập, tự chủ, kiên định nguyên tắc trong lập trường đối ngoại để đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, quy chụp rằng Việt Nam “mất cân bằng chiến lược” hay “phụ thuộc” vào một quốc gia nào đó. Thực tiễn cho thấy, lập trường “thêm bạn, bớt thù”, không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực… là những nguyên tắc bất biến, phù hợp với lợi ích dân tộc và luật pháp quốc tế.


Thứ hai, tiếp thu tinh thần ngoại giao đấu tranh nhưng nhân văn của Người để chủ động phản bác các thông tin sai lệch, nhất là trên không gian mạng – nơi mà các tổ chức phản động như Việt Tân, số đối tượng cơ hội chính trị, các hãng truyền thông thù địch thường xuyên lợi dụng để công kích đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Việc nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, nhất là đối ngoại trên nền tảng số, phải gắn với việc xây dựng các lực lượng chuyên trách có bản lĩnh chính trị vững vàng, kỹ năng phản biện tốt và hiểu sâu về pháp lý quốc tế.


Thứ ba, cần phát huy mạnh mẽ phương châm “ngoại giao vì dân” và tư tưởng “ngoại giao toàn dân” của Hồ Chí Minh, coi đó là động lực quan trọng để tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội, đồng thời mở rộng sức mạnh mềm quốc gia, góp phần củng cố và nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.


Từ thực tiễn và yêu cầu bảo vệ đường lối đối ngoại của Đảng hiện nay có thể khẳng định: Bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh không chỉ là nền tảng tư tưởng mà còn là hệ giá trị thực tiễn giúp định hướng hành động, tăng cường năng lực đấu tranh tư tưởng – lý luận, chủ động làm thất bại các chiến lược “diễn biến hòa bình”, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.


Kết luận


Bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh là một sự kết hợp độc đáo giữa trí tuệ, bản sắc dân tộc và tính nhân văn, thể hiện rõ nhất trong hành trình đấu tranh gian nan của dân tộc Việt Nam. Người đã khai mở một triết lý ngoại giao đậm tính chiến lược, không chỉ dựa vào sức mạnh quân sự mà còn sử dụng các phương tiện hòa bình, pháp lý và lý luận để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Với Hồ Chí Minh, ngoại giao là mặt trận chiến lược, nơi những quyết định không chỉ tác động đến hiện tại mà còn định hình tương lai của dân tộc.


Bản lĩnh của Hồ Chí Minh trong ngoại giao không chỉ là sự kiên định trong lý tưởng mà còn là khả năng linh hoạt trong ứng xử, đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn nhất. Người hiểu rõ rằng trong thế giới đầy biến động, sự kiên định vào mục tiêu không có nghĩa là cứng nhắc mà phải biết mềm dẻo, tìm kiếm giải pháp tối ưu trong mọi tình huống. Chính trong sự kết hợp giữa nguyên tắc và nhân văn, Hồ Chí Minh đã chứng minh rằng bản lĩnh ngoại giao không chỉ là chiến lược mà còn là sự tôn trọng, đối thoại và thấu hiểu lẫn nhau.


Ngày nay, những bài học từ bản lĩnh ngoại giao của Người vẫn là những giá trị cốt lõi và phương pháp hành động để phát triển đất nước. Chúng ta được nhắc nhở rằng hòa bình có thể duy trì qua đối thoại, chủ quyền có thể bảo vệ bằng luật pháp, và quốc gia có thể phát triển mạnh mẽ nếu biết nâng cao bản sắc văn hóa, phẩm giá dân tộc. Trong ngọn lửa bản lĩnh ngoại giao Hồ Chí Minh, hình ảnh một Việt Nam kiêu hãnh, kiên cường nhưng lại mềm mại, khoan hòa, càng trở nên rõ ràng. Đó là tầm vóc mà Người đã vạch ra cho dân tộc, không chỉ trong quá khứ mà còn trong tương lai, để mỗi bước đi của Việt Nam trên trường quốc tế đều thấm đẫm giá trị nhân văn, hòa bình và sự tôn trọng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Biên bản Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (Khoá II), ĐVBQ 29, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng.


2. Biên bản họp Bộ Chính trị (9-1954), Ban Chấp hành Trung ương, ĐVBQ 92, Cục Lưu trữ Trung ương Đảng. Lê Văn Duy (2020).


3. Biên bản họp Bộ Chính trị (5-1959), Ban Chấp hành Trung ương, ĐVBQ 76, Cục Lưu trữ Trung ương.


4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 34, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


5. Hồ Chí Minh (1996) Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


6. Robert S. Mc Namara (1995), Nhìn lại quá khứ - Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


7. Viện Quan hệ quốc tế (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, Nxb Sự thật, Hà Nội.

 

ThS. Võ Huỳnh Như Thuyên - Câu lạc bộ Lý luận trẻ tỉnh Bình Dương

 

Ý KIẾN BẠN ĐỌC
Gửi bình luận
Nhập thông tin của bạn
Bạn chưa nhập nội dung bình luận.
Về đầu trang