TÓM TẮT: Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nội dung lý luận và thực tiễn rất quan trọng, có nội hàm rộng lớn, phong phú đòi hỏi phải được nghiên cứu, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc và khoa học. Trong phạm vi bài này, tác giả nghiên cứu, tìm hiểu một số khía cạnh từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, làm rõ quá trình hình thành và phát triển tư duy lí luận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, nhằm khẳng định những giá trị tư tưởng lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của sự nghiệp cách mạng Việt Nam; đồng thời, đấu tranh phê phán và làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình hiện nay.
NỘI DUNG
Quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục, xuyên suốt, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, gắn với những mục tiêu nhiệm vụ chiến lược và sách lược của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Quá trình đó, đánh dấu những nấc thang phát triển về trình độ tư duy lí luận của Đảng và được thể hiện qua những giai đoạn lịch sử của đất nước, đặc biệt thay đổi từ 1986 đến nay
1. Giai đoạn tiến hành công cuộc đổi mới đất nước (1986 - đến nay)
Vào những năm 80 của thế kỷ XX, do những nguyên nhân khác nhau cả về khách quan lẫn chủ quan, nhất là hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh kéo dài và những khó khăn về nhiều mặt do chính sách bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch cùng với những “sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[1], đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nặng nề.
Đại hội VI của Đảng (1986), với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn đất nước, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng kinh nghiệm quốc tế, Đảng ta đã quyết định khởi xướng công cuộc đổi mới. Trong bốn bài học lớn đúc kết từ thực tiễn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, Đại hội nhấn mạnh bài học “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan… Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội ngày càng chi phối mạnh mẽ phương hướng phát triển chung của xã hội”[2].
Đại hội VI khẳng định tiếp tục kiên định đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV và Đại hội V đề ra, gắn theo đó là những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội cũng nhận thức sâu sắc hơn tính tất yếu, lâu dài, khó khăn của thời kỳ quá độ; xác định mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ bao trùm trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo.
Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, đất nước đứng trước những thách thức nghiêm trọng. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới bước vào thời kỳ khủng hoảng, tan rã; chủ nghĩa đế quốc tập trung tiến công quyết liệt phong trào cách mạng thế giới, trước hết là trên mặt trận chính trị, tư tưởng. Đất nước ta tuy đã bước vào đổi mới, đạt được những kết quả bước đầu, nhưng còn rất nhiều khó khăn và không tránh khỏi những vấp váp. Vấn đề lựa chọn con đường phát triển đất nước lại đặt ra gay gắt: tiếp tục đi lên chủ nghĩa xã hội hay chuyển hướng sang con đường phát triển tư bản chủ nghĩa? hay lùi lại, tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân?
Trong bối cảnh hết sức phức tạp đó, Đại hội VII của Đảng (1991) đã thể hiện bản lĩnh, sự kiên định chính trị vững vàng của một đảng cộng sản từng kinh qua nhiều thử thách, dày dạn kinh nghiệm. Văn kiện Đại hội khẳng định: Đối với nước ta, kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn, không có con đường nào khác để có độc lập thực sự và tự do, hạnh phúc cho nhân dân “đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, sự lựa chọn đã dứt khoát từ năm 1930 với sự ra đời của Đảng ta… nhân dân ta quyết không chấp nhận con đường nào khác ngoài con đường đi lên chủ nghĩa xã hội”[3].
Thực hiện chủ trương của Đại hội VI, Đại hội VII của Đảng đã thông qua và quyết định ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh năm 1991).
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nghiên cứu, tổng kết những kinh nghiệm cả về thành công và thất bại trong lịch sử hơn 70 năm hình thành, phát triển chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới, kinh nghiệm cải tổ, cải cách của một số nước xã hội chủ nghĩa trong những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX. Đặc biệt là đánh giá 5 năm đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới; kế thừa có chọn lọc những nhận thức trong văn kiện đại hội trước đây (từ Đại hội I đến Đại hội VI); phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, Cương lĩnh năm 1991 đã trình bày những đường nét chủ yếu và làm sáng rõ hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Cương lĩnh năm 1991 đã trình bày tổng quát mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng, với sáu đặc trưng cơ bản:Do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”[4]. Đồng thời, đã xác định bảy phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Làm rõ bối cảnh, đặc điểm, yêu cầu, mục tiêu quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; chỉ rõ những thời cơ, thuận lợi, thách thức, khó khăn đối với nước ta và khẳng định: Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, do vậy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường, phải tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh xác định mục tiêu tổng quát phải đạt được khi kết thúc thời kỳ quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh. Trong chặng đường đầu của thời kỳ quá độ phải tiến hành đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng đường sau.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh năm 1991 đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và định hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những nhận thức đó vừa có sự kế thừa những hạt nhân hợp lý trong nhận thức trước đây đã được thể hiện trong các Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và trong Văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng, vừa điều chỉnh, bổ sung những điểm mới theo tư duy đổi mới; vừa thể hiện những nhận thức chung có tính phổ biến trong cộng đồng các nước xã hội chủ nghĩa, vừa phản ánh những nhận thức riêng mang tính sáng tạo của Đảng phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Lần đầu tiên, trong Văn kiện có tầm quan trọng đặc biệt, Đảng ta đã trình bày một cách hệ thống, toàn diện những vấn đề cốt lõi nhất liên quan đến chủ nghĩa xã hội và phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đưa ra những định hướng có tính nguyên tắc, bảo đảm để cách mạng nước ta không đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời nêu cao tư tưởng đổi mới, phòng ngừa sự lặp lại những sai lầm, vấp váp.
Sau Đại hội VII, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng khóa VII (1994), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là sự nghiệp rất mới mẻ, đòi hỏi nhiều công phu nghiên cứu, khám phá, tìm tòi. Chúng ta phải không ngừng thông qua tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận mà từng bước hình dung ngày càng sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ những mô hình cụ thể trong từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa… Phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa đất nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”[5].
Theo tinh thần đó, trong giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2010, từ thực tiễn đổi mới vô cùng phong phú, Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Đại hội VIII, IX, X và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương các khóa, một mặt, triển khai mạnh mẽ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội theo định hướng của Cương lĩnh năm 1991; mặt khác, chú trọng tổng kết thực tiễn đổi mới, phát triển lý luận, làm sáng tỏ, đầy đủ hơn những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội VIII của Đảng (1996), căn cứ vào thành quả của 10 năm đổi mới đã đưa ra nhận định quan trọng: nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hóa cơ bản đã hoàn thành, nước ta chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có sơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất, tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đến Đại hội VIII, nhận thức về hình mẫu chủ nghĩa xã hội đã được bổ sung một số đặc trưng mới; mục tiêu và lộ trình phấn đấu đã được xác định cụ thể hơn.
Đại hội IX của Đảng (2001), từ thực tiễn và thành tựu 15 năm đổi mới, tiếp tục có những nhận thức đầy đủ, rõ ràng hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã nhận thức biện chứng về con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Khẳng định bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng không phải phủ định tất cả những gì thuộc về chủ nghĩa tư bản, mà tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đại hội phân tích sâu sắc tính chất của thời kỳ quá độ; làm rõ động lực phát triển đất nước; xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là những bổ sung, phát triển mới về nhận thức lý luận của Đảng.
Đại hội X của Đảng (2006), tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới; kế thừa, tích hợp những nhận thức, định hướng phát triển đất nước từ Đại hội VII đến Đại hội IX, bổ sung, phát triển, làm sáng tỏ hơn nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã khái quát tám đặc trưng của hình mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa và xác định tám phương hướng cơ bản trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở những quan điểm, nhận thức tích lũy được trong quá trình đổi mới, Đại hội chủ trương: sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đến Đại hội XI của Đảng (2011), thực hiện chủ trương và kế thừa, phát triển những nhận thức mới của Đại hội X, kết hợp với kết quả tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, đã thông qua và ban hành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011; gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011).
Cương lĩnh năm 2011 giữ lại những nội dung còn nguyên giá trị của Cương lĩnh năm 1991, đồng thời bổ sung, phát triển những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện trên những điểm sau đây:
Về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa: Cương lĩnh năm 2011 xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta phấn đấu xây dựng, với tám đặc trưng cơ bản: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;Do nhân dân làm chủ; Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
So với Cương lĩnh năm 1991, những đặc trưng của hình mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa được phấn đấu xây dựng ở Việt Nam trình bày trong Cương lĩnh năm 2011 đầy đủ, tinh gọn, sáng rõ hơn; vừa phản ánh những giá trị phổ quát của nhân loại, vừa thể hiện mục tiêu lý tưởng, mục đích chính trị của Đảng, nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân; đồng thời, phù hợp với sự phát triển nhận thức và thực tiễn 25 năm đổi mới ở Việt Nam.
Về thời kỳ quá độ và mục tiêu phấn đấu: Cương lĩnh năm 2011 nhận thức sâu sắc hơn tính tất yếu, lâu dài, những khó khăn, thuận lợi trong cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới trong thời kỳ quá độ; yêu cầu khách quan phải thực hiện nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen. Trên cơ sở dự báo tình hình thế giới, trong nước và khả năng phát triển của đất nước, Cương lĩnh năm 2011 chuẩn xác hóa mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta và bổ sung mục tiêu: “Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[6].
Về những phương hướng lớn nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: Cương lĩnh năm 2011 sắp xếp lại và bổ sung, hoàn thiện tám phương hướng cơ bản. Cụ thể như sau: “Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”[7].
Có thể nói, những nội dung cơ bản được trình bày trong Cương lĩnh năm 2011 rất ngắn gọn, súc tích, đầy đủ và sáng rõ hơn, vừa kế thừa những nội dung cốt lõi của Cương lĩnh năm 1991, vừa bổ sung những nhận thức mới về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng con người, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; về hội nhập quốc tế. Đây là bước tiến quan trọng trong nhận thức tư duy lý luận của Đảng về phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với Cương lĩnh năm 2011, lý luận đổi mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã định hình trên những đường nét cơ bản.
Từ năm 2011 đến nay, trong bối cảnh thế giới, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đất nước đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ đan xen với nhiều khó khăn, thách thức, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đạt được những thành tựu rất quan trọng với những dấu ấn nổi bật. Đây cũng là khoảng thời gian đánh dấu những bước tiến mới trong nhận thức tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nhất là tổng kết 30 năm đổi mới và đánh giá 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới; 30 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh năm 2011. Đặc biệt là Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, làm sáng rõ hơn những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được trình bày trong Cương lĩnh năm 2011. Cụ thể như sau:
Về mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa: Đảng nhận thức sâu sắc hơn mối quan hệ khăng khít, biện chứng giữa các đặc trưng cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nội hàm của từng đặc trưng được bổ sung những nhận thức mới, phù hợp với tình hình mới, yêu cầu mới. Nổi bật là: nhận thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa, về vai trò là chủ, làm chủ của nhân dân; về vị trí trung tâm của kinh tế - xã hội, về phát triển kinh tế nhanh, bền vững, …về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; về lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trong quan hệ quốc tế.
Về thời kỳ quá độ và mục tiêu phấn đấu: “Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt…Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”[8].
Đảng ta bổ sung mục tiêu tổng quát: “ Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[9]; đồng thời, xác định mục tiêu cụ thể theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận của Đảng ta trong 35 năm đổi mới và phù hợp với cách tiếp cận của thế giới:
“Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”[10].
Về những phương hướng cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: Đảng có những nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng chú trọng hơn chất lượng và tăng tính bền vững, với các khâu đột phá là: (1) Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; (2) Phát triển nguồn nhân lực, trước hết là nguồn nhân lực chất lượng cao; (3) Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội.
Nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập, bảo đảm độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.
Đảng đã bổ sung nhận thức mới về mối quan hệ giữa phát triển văn hóa và xây dựng con người, coi phát triển văn hóa và xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; về đúc kết, phát huy hệ giá trị văn hóa, sức mạnh và giá trị của con người Việt Nam; về nâng cao mọi mặt đời sống của nhân dân, thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển.
Nhận thức về bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được hoàn thiện trên cơ sở phát triển chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố, nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”[11].
Phương hướng thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế tiếp tục được bổ sung, phát triển gắn với yêu cầu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam; bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; xử lý hiệu quả hợp tác và đấu tranh, đối tác và đối tượng.
Phương hướng xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất được bổ sung những nhận thức mới về tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, đề cao trách nhiệm, nghĩa vụ công dân; thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở; thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội.
Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Đảng nhấn mạnh yêu cầu kiểm soát quyền lực Nhà nước gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức; xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, tăng cường phân cấp, quân quyền, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
Phương hướng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được bổ sung nhận thức mới về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; về xây dựng Đảng gắn với chỉnh đốn Đảng, coi đây coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; về nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
Tóm lại, những nội dung cơ bản về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, đã được Đảng ta nhận thức một cách khoa học theo tư duy logich và tổng thể. Thời kỳ mới đòi hỏi phải phát triển đất nước toàn diện, đồng bộ hơn cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, trong đó “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”[12].
Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức lợi dụng các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại, Internet và các trang mạng xã hội để đăng tải, chia sẻ, tán phát các quan điểm sai trái nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội nói chung và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Thủ đoạn của chúng thường sử dụng là tạo dựng, xuyên tạc bản chất cách mạng và khoa học nền tảng tư tưởng của Đảng; phủ nhận các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học; phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam. Phương thức chung là tuyệt đối hóa hiện tượng thay cho bản chất, đưa các thông tin thật - giả, đúng - sai lẫn lộn, hòng gây hoang mang, dao động, bi quan, mơ hồ, mất niềm tin của quân nhân và các tầng lớp nhân dân vào nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo.
Để đấu tranh phản bác hiệu quả với các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, trước hết, Nhà trường cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho giảng viên nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành chống phá của các thế lực thù địch; Nhận rõ tính chất phản động về chính trị và phản khoa học của các quan điểm sai trái, thù địch, mọi suy nghĩ và hành động muốn phủ nhận hay tách rời độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, dù với động cơ gì, từ nguyên nhân nào đều làm tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc, đi ngược lại nguyện vọng chính đáng của nhân dân và dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, cần chủ động vạch trần, lên án và đấu tranh bác bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thông tin, tuyên truyền làm cho giảng viên nhận thức sâu sắc rằng: Con đường cách mạng mà nhân dân ta đã lựa chọn “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tiễn nước ta và yêu cầu bức xúc của xã hội Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, thông tin, tuyên truyền làm cho quân nhân và các tầng lớp nhân dân nhận rõ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hiện nay không sẵn có mô hình, là một sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài và không thể chủ quan, nóng vội, nhưng đó là con đường hợp quy luật, hợp lòng dân. “Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội”[13].
Phát huy vai trò nòng cốt của Ban Chỉ đạo 35, tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, Ban Chỉ đạo 35 các cấp, cần chủ động nghiên cứu những định hướng về căn cứ lý luận và thực tiễn do Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan chức năng phát hành để biên soạn tài liệu nội bộ định hướng đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh trực diện với các thông tin, quan điểm sai trái trên Internet, mạng xã hội, đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động; tuyên truyền, giáo dục rộng rãi nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong tập thể quân nhân.
KẾT LUẬN
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa ở Việt Nam là một vấn đề lý luận và thực tiễn rất quan trọng trong hệ thống quan điểm của Đảng. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật phát triển của đất nước, bối cảnh của thời đại. Đó là sự lựa chọn của lịch sử, của nhân dân ta đi theo Đảng, Bác Hồ, làm nên những thắng lợi vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới của thời đại.
Nhận thức đúng quá trình hình thành và phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, điều đó không chỉ có ý nghĩa quan trọng về mặt định hướng chính trị, tư tưởng, xây dựng niềm tin vào sự tất thắng của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà còn góp phần đấu tranh phản bác và làm thất bại các quan điểm, tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận những thành quả cách mạng của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 71, 72.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.101-104, 112, 128-129, 110,117.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, 37, 47, 53, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
5. Hội đồng Lý luận Trung ương “30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, tr.37, tr.44-45.
6. Tạp chí Chủ nghĩa xã hội - Lý luận và thực tiễn, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, số 2 (12) 2021, tr. 44-45.
7. GS, TS Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 966 (5-2021), tr. 5, 7, 13, 14.
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Sđd, tr. 360.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Sđd, tr. 363.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Sđd, tr. 13-14.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Sđd, tr. 134.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 53, Sđd, tr. 197-198.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 71.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 72.
[8] Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 13.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 112.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 128-129.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 117.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, tr. 110.
[13] Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 14.
Ths. Võ Văn Ninh Giang - Trường Chính trị tỉnh Bình Dương